Lễ phẩm thờ Thành hoàng làng

Dân ta có phong tục – tín ngưỡng thờ Thành hoàng tự bao giờ? Thật khó trả lời chính xác. Việc ấy hình thành dần dần theo lệ làng hay bắt đầu từ chiếu chỉ của vua? Từ thời nào? Từ Trung Quốc sang hay tự ta? Chỉ biết rằng ở ta đến thời Lý – Trần vẫn chưa thấy ghi chép chính thống nào với nội dung về đình để thờ Thành hoàng, mà chỉ thấy nói đến chùa thờ Phật. Ngay cả trong thơ văn Nguyễn Trãi, và vua Lê Thánh Tông là hai tác giả nổi tiếng, vịnh cảnh rất nhiều cũng không thấy bóng dáng của đình làng!

anh-bai-ga.jpg

Lễ vật trong lễ hội đền thơ nữ tướng Hồ Đề, thôn Đông Cao, xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, TP.Hà Nội

Chỉ đến thời Lê Trung hưng, thời Lê – Trịnh (1533 – 1788), trong bộ Lễ đã đặt chức quan Quản giám bách thần, viết thần phả, soạn sắc phong Thành hoàng cho từng thôn ấp phụng thờ. Rõ rệt nhất là Thượng thư Nguyễn Bính từng soạn rất nhiều thần phả, có tài liệu nói là, vào niên hiệu Hồng Phúc (1572). Thời này, đình làng xây dựng khắp nơi. Những ngôi đình lớn, cổ nhất hiện còn đều được xây dựng từ thế kỷ XVI.

Ở Trung Hoa, thơ Đường, Tống, Nguyên lác đác có nói tới đình nhưng đó chỉ là ngôi nhà để dừng chân, để nghỉ chứ không phải để thờ ai. Chỉ đến triều Minh, qua Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, “Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh” (1522 – 1571), gặp lời khấn của Bạc Hạnh: “Bạc sinh quỳ xuống vội vàng/ Quá lời nguyện kết thành hoàng thổ công”, ta mới khẳng định được có tín ngưỡng đó.

Thời Minh ngang với thời Hậu Lê của ta. Nếu suy luận đó là có cơ sở đáng tin cậy thì việc thờ cúng Thành hoàng làng ở ta cũng đã trải qua trên dưới năm thế kỷ, nghĩa là từ lâu, từ xưa, và đã trở thành nền nếp, thành phong tục, thành tín ngưỡng của mọi làng.

Các vị Thành hoàng dù xuất thân cao sang hay dân thường, dù có quan tước hay là những người có công với nước, với dân, ít nhất cũng là của một làng.

Sinh thời, các ngài đều tài cao, trí sáng khác thường, đức độ hơn người, một lòng cứu nhân độ thế, hoặc ra sức đánh giặc bảo vệ non sông, hoặc mở mang bờ cõi, khai phá ruộng đồng, dạy dân nghề nghiệp, giáo hóa lễ nghĩa, giữ gìn thuần phong mỹ tục…

Khi hóa, các ngài âm phù quốc tộ, che chở dân lành bình an tấn tới, hằng năm nhân khang vật thịnh, nghĩa là người người khỏe mạnh, của cải dồi dào, cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc.

Thường thường mỗi làng thờ một vị Thành hoàng, nhưng cũng không ít làng thờ nhiều hơn thế. Tiêu biểu như đình làng Thụy Dương, xã Thụy Hương huyện Chương Mỹ, Hà Nội thờ tới bảy vị. Dù nhiều dù ít nhưng các vị đều rất được dân làng sùng kính, tin tưởng.

Mỗi năm hai lần (xuân thu nhị kỳ) lễ vật dâng các ngài đều là những thứ quý giá nhất, thể hiện tấm lòng thành của dân làng. Hầu như ở tất cả mọi nơi, đồ chay đều là: “Hương hoa quả phẩm, phù lưu thanh chước” tức là hương – hoa – chuối – oản – trầu – rượu. Còn dâng ngài về đồ mặn thông thường là suy trư – suy kê (xôi sỏ lợn – xôi gà).

Nén hương thể hiện tấm lòng thơm thảo, thẳng ngay, son thắm. Trong làn khói nhè nhẹ bay lên như được dâng lòng thành kính, ước vọng, tưởng nhớ huân công (công lao to lớn rực sáng) của thánh.

Còn hoa cũng là sản phẩm quý giá của Mẹ Đất. Hoa dâng Thánh phải là hoa ngào ngạt sắc hương, thanh khiết như hoa huệ trắng trong, thơm xa, càng xa càng ngát. Hoa sen “nhị vàng bông trắng lá xanh”, sắc bền, hương dịu; hoa cúc vàng thắm sắc thu, coi thường sương tuyết. Các loài hoa có sắc mà không có hương, không dùng; hoa nhài hương sắc đó, nhưng nở về đêm mờ ám, không dùng; hoa quỳnh hương sắc đó, nhưng vừa nở đã khép, người xưa quan niệm e lệ như con gái đàn bà, sao được vào đình?

Quả là kết tụ đất trời. Ai làm gì mà không mong kết quả? Quả dâng Thánh, đầu vị là chuối, chuối đẹp hình, đẹp sắc, thơm hương, ngọt vị. Chuối là thứ quả chỉ để dâng hiến, không dành giống cho riêng mình!

Oản là gạo nếp, thứ gạo ngon nhất, nguyên chất, đóng khuôn, không thêm thứ gì dù chỉ dù là chút muối.

Trầu thì rõ rồi, đầu vị lễ nghi từ ngàn đời, từ thuở ban đầu dựng nước và đã thành phong tục truyền thống, biểu tượng của son sắt thủy chung.

Rượu là tinh hoa của hạt gạo đồng quê, ngọc thực quý giá nuôi sống con người. Đã thành nguyên tắc: “Phi tửu bất thành lễ” (Không có rượu không thành lễ).

Đó là chay tịnh. Còn lễ mặn thì sao?

Trước hết là xôi. Xôi dâng thánh phải là xôi trắng, tinh khôi nếp cái hoa vàng, thơm ngon đệ nhất, xôi mặn mà bởi xóc thêm chút muối trước khi đồ chín.

Thịt là thực phẩm cao cấp, sang quý ngày xưa. Nói thịt là nói thịt lợn. Thịt lợn là đại diện tiêu biểu, đến nỗi không cần phải nhắc đến tên như bò, gà, dê, ngỗng… “Ăn cơm với thịt là ăn sang, đâu cần phải rõ ràng thịt lợn?”. Thịt dâng Thánh là sỏ lợn, bao giờ cũng kèm theo cái đuôi. Nhất thủ nhị vĩ, đầy đủ vẹn toàn, trân quý!

Nếu dâng gà, phải là gà trống hoa, bởi vật hiến tế đó có đủ năm đức quý là Nhân – Nghĩa – Trí – Dũng – Tín như ước nguyện làm người.

Chung ở nơi nơi là như thế. Còn riêng thì phong phú vô cùng, không sao kể hết được bởi mỗi nơi mỗi vẻ của kính thành trước Thánh. Hoặc ghi sâu cuộc sống thanh bạch, đạo cao thanh khiết của ngài như lễ rước Đốn cúng toàn cỗ chay ở ba làng Bặt, Liên Bạt, Ứng Hòa. Hoặc kỷ niệm những việc ngài đã làm cho nước cho dân như ở Nội Xá, Thái Bình (Vạn Thái, Ứng Hòa); hoặc dâng những thứ yêu thích lúc sinh thời như nộm giá ở Đình Tràng; hoặc muốn thể hiện tài năng, công phu, sáng kiến của kẻ làm con dân như ở Hoàng Xá, thị trấn Vân Đình.

Tất cả đều sáng lên tấm lòng hiếu nghĩa trung hậu của người sau “uống nước nhớ nguồn”. Gốc thiện là ở đây. Nguồn sức mạnh cũng từ đây. Mở nước, giữ nước bao giờ chẳng cần như thế?

 

Đặng Thiêm

https://nguoihanoi.com.vn/le-pham-tho-thanh-hoang-lang-74283.html