Làng nghề ‘đệ nhất dao kéo đất Thăng Long’ và hành trình giữ lửa rèn

Các nghệ nhân ở làng nghề Đa Sỹ – nơi được mệnh danh là ‘đệ nhất dao kéo đất Thăng Long’ – luôn dạy con cháu, học viên làm nghề phải có tâm, phải làm sản phẩm tốt thì mới giữ được nghề.

Hiện nay, làng Đa Sỹ có 1300 hộ sản xuất

Nói đến ngôi làng “đệ nhất dao kéo đất Thăng Long,” người ta nghĩ ngay đến làng rèn Đa Sỹ, nằm bên dòng sông Nhuệ thuộc quận Hà Đông, Hà Nội.

Chạy dọc từ Đình Đa Sỹ đi sâu vào trong làng, tiếng máy mài, tiếng búa thi nhau vang lên từ sáng tới chiều. Sản phẩm của làng rèn phục vụ người tiêu dùng cả trong và ngoài nước.

Làng rèn truyền thống đất Kinh kỳ

Nói về nguồn gốc của làng rèn Đa Sỹ, ông Đinh Công Đoán, Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề làng Đa Sỹ chia sẻ: “Làng rèn khởi phát từ cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, khi cha ông ta làm giáo mác, cơ khí đánh giặc ngoại xâm. Khi đất nước thanh bình, các cụ quay trở về làm các vật dụng phục vụ nông nghiệp như cào, cuốc, cày bừa.”

Làng nghề rèn Đa Sỹ nổi tiếng cả nước với mặt hàng dao kéo chất lượng cao, thậm chí từng được xuất khẩu sang các nước láng giềng.

Người làng Đa Sỹ làm đa dạng các mặt hàng, từ con dao bé xíu để làm lòng gà, lòng vịt đến dao chặt, dao quăm, dao máy, xén máy, xén vải…

Những sản phẩm của làng nghề Đa Sỹ.

Sản phẩm của làng rèn Đa Sỹ không chỉ phong phú mà đặc biệt được ca ngợi bởi độ bền, sắc, cứng, nhờ kỹ thuật tôi thép điêu luyện của người làng Đa Sỹ. Người dân nơi đây vẫn tự hào bởi khả năng tạo ra những con dao “chặt được cả sắt”.

Công đoạn để làm ra một sản phẩm dao, kéo ở Đa Sỹ rất công phu. Dao phải chọn thép tốt, tốt nhất là nhíp (dùng để rèn dao chặt) hoặc tanh lốp ôtô (dùng rèn loại dao nhỏ).

Sau đó, thép được đưa vào lò nung đủ độ. Đặc biệt, để nung thép cho chuẩn, người ta thường dùng xỉ than. Khi rèn xong phải ủ vào tro củi để thép nguội từ từ, bởi nếu nguội nhanh thép sẽ giòn. Khi ủ xong mới vỗ cho nhẵn, giũa lưỡi cho sắc ngọt.

Vừa giữ nghề, vừa thích ứng với công nghệ mới

Trải qua hàng trăm năm, làng rèn Đa Sỹ chưa bao giờ thôi đỏ lửa từ sớm tới khuya.

Hiện nay, làng Đa Sỹ có 1.300 hộ sản xuất. Các sản phẩm rèn của làng Đa Sỹ hiện diện ở mọi nơi, từ Bắc vào Nam. Làng rèn đã tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, mặc dù thu nhập không cao nhưng ổn định cuộc sống.

Ông Nguyễn Văn Mộc, một nghệ nhân có tiếng ở Đa Sỹ, cho biết hiện nay xưởng của ông chủ yếu làm dao, dùng máy xay nhựa tái chế để làm cán. Việc tái chế vừa tránh lãng phí nguyên liệu lại góp phần bảo vệ môi trường.

Người thợ rèn Đa Sỹ mài những lưỡi dao qua máy để làm sáng và loại bỏ những mạt sắt bám vào dao trong quá trình nung.

Gia đình ông Đoán theo nghề đã ngót nghét 50 năm. Cho đến nay, hành trình ấy đã thu về quả ngọt. Trong thời gian có dịch Covid-19, làng rèn vẫn có đơn hàng và vẫn tiếp tục sản xuất, chỉ giảm bớt số lượng nhân công.

Tuy nhiên, điều mà ông Đoán cùng với Hiệp hội làng rèn Đa Sỹ trăn trở nhất hiện nay là làm sao để giải phóng sức lao động cho công nhân và bảo vệ môi trường trong khu vực để không ảnh hưởng đến sức khỏe người già và trẻ em.

Các nghệ nhân ở Đa Sỹ luôn dạy con cháu, học viên làm nghề phải có tâm, phải làm sản phẩm tốt thì mới giữ được nghề. Hiện nay, làng Đa Sỹ có khoảng 20% các gia đình làm các mặt hàng chất lượng cao, cho thu nhập tốt.

Làng rèn Đa Sỹ đã được Hiệp hội làng nghề Việt Nam công nhận là một trong những làng nghề tiêu biểu của Việt Nam. Quá trình sản xuất kinh doanh ngành nghề rèn của làng cũng đã được thành phố Hà Nội quy hoạch để bảo tồn và phát huy nghề truyền thống.

Hiện tại làng Đa Sỹ đang được triển khai dự án điểm công nghiệp làng nghề Đa Sỹ rộng 13,2ha nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khu vực dân cư và người dân có điều kiện để phát triển khoa học kỹ thuật.

Ông Đinh Công Đoán, Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề làng Đa Sỹ, Phó ban quản lý dự án cho hay vừa qua, dự án đã đưa vào rà soát các hộ để đưa vào sản xuất tại điểm công nghiêp, với các tiêu chí về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, hiện dự án còn đang gặp một số khó khăn, vướng mắc về nhà đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng./.

Bích Hà-Thu Hoài/Vietnam+